Rừng ngập mặn Việt Nam Rừngngập mặn là loại rừng của các loài cây nhiệt đới và cây bụi có rễ mọctừ các trầm tích nước mặn nằm giữa khu vực giữa bờ biển và biển .Đâycũng là vườn ương cho các loài cá trong rạn san hô. I. Tác dụng của rừng ngập mặn Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm hứng từ 5– 8 cơn bão và áp thấp nhiệt đới kèm theo mưa lớn. Bão thường kết hợpvới triều cường gây ra lũ lụt. Trước kia một số địa phương ven biểnchưa được bê tông hóa đê, nhưng mái đê có lớp phủ cỏ và dây leo kín,lại có thêm RNM vững chắc bảo vệ nên đê ít bị xói lở hoặc vỡ khi mưabão. Đầu thế kỉ XX, nhân dân các vùng ven biển phía Bắc đã biết trồngcác loài cây ngập mặn như trang, bần chua để bảo vệ đê biển và vùng cửasông. Thân đê được đắp bằng đất thịt nén chặt, có các vành đai rộng RNMchắn sóng, thảm cỏ và dây leo dày đặc bảo vệ mái đê, cho nên dù khôngđược kè đá và bê tông hóa nhưng đê vẫn vững chắc trong mưa bão.
Hệ thống rễ dày đặc của các loài cây RNM có tác dụng rất lớn trong việcbảo vệ đất ven biển và vùng cửa sông. Chúng vừa ngăn chặn hiệu quả sựcông phá bờ biển của sóng, vừa làm vật cản cho trầm tích lắng đọng, giữhoa lá, cành rụng trên mặt bùn và phan hủy tại chỗ nên bảo vệ được đất.Một số loài cây tiên phong như mắm biển, mắm trắng, bần trắng sinhtrưởng trên đất bồi non có khả năng giữ đất phù sa, mở rộng đất liền raphía biển (ở vùng Tây Nam mũi Cà Mau, dọc sông Đồng Tranh – Cần Giờ,tp. Hồ Chí Minh, các bãi bồi ở cửa sông Hồng. Một số đảo nhỏ ven bờcũng được nâng cao nhanh nhờ thảm thực vậtk ngập mặn như Cồn Ngạn, CồnLu ở Giao Thủy, Nam Định, Cồn Trong, Cồn Ngoài ở cửa Ông Trang, CàMau...
II. Diện tích RNM ngày càng bị thu hẹp. Cuối thế kỷ XX, sự bùng nổ dân số và yêu cầu xuất khẩu nênphần lớn RNM ở miền Bắc đã bị phá để lấy đất trồng cói, chế biến hàngxuất khẩu. Ở miền Nam, rừng bị khai thác kiệt quệ để lấy gỗ tròn, hầmthan xuất khẩu và đầm nuôi tôm.
Bên cạnh đó, việc phá RNM phòng hộ để sản xuất nông nghiệp, xây dựngcảng, khu dân cư, khu du lịch...cũng góp phần đáng kể trong việc pháhoại RNM. Và hậu quả là thiên tai hoành hành, cuộc sống của cộng đồngven biển luôn bị đe dọa. Khi RNM chưa bị phá thì quá trình xâm nhập mặndiễn ra chậm, phạm vi hẹp, vì khi thủy triều cao nước đã lan tỏa vàotrong những khu RNM có hệ thống rễ cây dày đặc đã làm giảm tốc độ dòngchảy, tán cây hạn chế tốc độ gió. Nhưng hiện nay, hầu hết RNM ven biểnđã bị phá để làm ruộng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đứp những dãybờ lớn để làm đầm nuôi tôm quảng canh làm thu hẹp phạm vi phân bố củanước triều ở ven biển, cưả sông. Do đó, nước mặn theo dòng triều lênđược gió mùa hỗ trợ đã vào sâu trong các dòng sông trong đất liền vớitốc độ lớn, kèm theo sóng, gây ra xói lở bờ sông và các chân đê. Nướcmặn còn thẩm thấu qua chân đê vào đồng ruộng, làm năng suất bị giảm,thiếu nước ngọt, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. Nhằm cứu RNM, từcuối thế kỷ XX, nhà nước ta đã có những quan tâm đến việc trồng rừngphòng hộ ven biển (chương trình 327 và 661), đặc biệt, nhờ sự hỗ trợcủa một số tổ chức quốc tế (WB) và các tổ chức phi chính phủ (NGO) nêndiện tích rừng phòng hộ đã tăng đáng kể. Hơn 100.100 ha rừng trồng đãphát triển tốt ở 16 tỉnh ven biển, làm giảm đáng kể những thiệt hại dothiên tai. Các dải RNM có tác dụng làm tăng nguồn lợi thủy sản ven bờ,cung cấp và nuôi dưỡng cua giống và một số loài hải sản khác cho cácđầm. Đồng thời, cuộc sống của cộng đồng vùng ven biển cũng được cảithiện đáng kể.
III. Tác dụng của RNM trong phòng hộ, giảm nhẹ thiên tai. Kết quả khảo sát của Phân viện điều tra quy hoạch rừng Nambộ năm 2006 cho thấy, diện tích đất bồi ven biển ĐBSCL khá lớn. Nhiềunơi có RNM phòng hộ ven biển thì tốc độ bồi lắng nhanh hơn. Điển hìnhlà việc hình thành hai hòn đảo nhỏ ở cửa sông Ông Trang. Đảo Cồn Tronghình thành năm 1960 có diện tích 122 ha. Ban đầu chỉ có mắm trắng làcây tiên phong, tạo điều kiện cho các loài khác phát tán trên đảo, có22 laòi cây ngập mặn sinh sống, động vật ở đây cũng phong phú. Đảo CồnNgoài hình thành muộn hơn (năm 1980), có diện tích 149 ha. Đến nay,thảm thực vật gồm hai loài tien phong là mắm trắng và bần trắng đã phủkín đảo..
Một số địa phương thực hiện nghiêm túc chương trình 327 thìđê điều và đồng ruộng được bảo vệ tốt. Ví dụ: tháng 7/1996, cơn bão số2 (Frankie) với sức gió 103 – 117 km/hđổ bộ vào vùng biển Thái Thụy,Thái Bình, nhờ các dải RNM ven biển nên đê biển, bờ của nhiều đầm khôngbị hỏng; Tháng 9/2000, cơn bão số 4 (Wukong) với sức gió 89- 102 km/hđổ bộ vào vùng biển Thạch Hà, Hà Tĩnh, nhưng nhờ các dải RNM trồng ở 9xã vùng nươc lợ nên hệ thống đê sông Nghèn không bị hư hỏng.
Qua khảo sát ở một số địa phương có RNM phòng hộ nguyên vẹnở Đồ Sơn (Hải Phòng), Thái Đô(Thái Bình), Giao Thủy(Nam Định), HậuLộc(Thanh Hóa) thì đê biển ở những nơi này hầu như không bị sạt lởtrong các cơn bão.
Sau một số cơn bão lớn năm 2005 và 2006, nhiều địa phươngven biển thấy rất rõ tác dụng của RNM đối với việc phòng chống thiêntai nên rất muốn phục hồi rừng phòng hộ. Nhưng khó khăn lớn nhất làhiện nay nhiều nơi không còn đất để trồng rừng. Do đó nhà nước cần cónhững biện pháp kiên quyết lấy lại đất và tạo điều kiện cho những hộdân chuyển đổi nghề thì mới có khả năng phục hồi, phát triển rừng phònghộ chắn sóng ven biển.