Học ngoại ngữ nhưng nói không đượcTT - Bài viết “
Nhốn
nháo “săn” chứng chỉ ngoại ngữ” (
Tuổi Trẻ 29-6) đã phản
ánh trung thực hiện trạng chất lượng của sản phẩm giáo dục VN mà Bộ
GD-ĐT đã và đang chỉ đạo từ bậc phổ thông đến đại học. Phần lớn các
trường phổ thông bắt đầu dạy tiếng Anh, hoặc một ngoại ngữ khác, từ lớp
6. Một số ít trường đã bắt đầu dạy ngoại ngữ từ bậc tiểu học.
Các thầy cô dạy ngoại ngữ ở bậc phổ thông phải dạy đúng
theo chương trình của bộ, từ chương trình lạc hậu cũ đến chương trình
theo sách giáo khoa mới thay từ năm học 2005-2006, phải rất chật vật dồn
nén các nội dung kiến thức dạy nhanh trong mỗi tiết học để không cháy
giáo án, thì không có thì giờ đâu để cho học sinh thực tập hai kỹ năng
nghe và nói.
Do đó suốt bảy năm trời học tiếng Anh ở bậc phổ thông
chỉ để làm bài thi trắc nghiệm “abc khoanh” mà thôi, tốt nghiệp rồi mà
giao tiếp chả được gì, ngoại trừ những học sinh có khiếu và được đi học
thêm ngoại ngữ ngoài giờ học trong trường. Lên bậc đại học, sinh viên
tiếp tục học ngoại ngữ suốt bốn năm, nhưng đại bộ phận sinh viên tốt
nghiệp rồi mà nói ngoại ngữ người ta không hiểu và cũng không hiểu người
ta nói gì!
Vì thế trên báo
Tuổi Trẻ Xuân Canh Ngọ (1990)
tôi đã khuyến khích thanh niên mỗi người cần phải trang bị cho mình hai
vũ khí cần thiết để đi vào thế giới cạnh tranh toàn cầu hóa là tiếng Anh
và tin học. Nhưng không biết có bao nhiêu người đã hưởng ứng?
Cho đến lúc này Bộ GD-ĐT vẫn chưa có chủ trương kiên
quyết bắt buộc về sử dụng thông thạo ngoại ngữ và tin học đối với sinh
viên tốt nghiệp đại học. Đây là một bất lợi rất lớn cho VN chúng ta. Tai
hại tiếp nối tất yếu sẽ đến khi xét tiêu chuẩn của các ứng viên phó
giáo sư và giáo sư VN.
So với quốc tế, các bạn láng giềng châu Á như
Philippines, Malaysia, Hong Kong, Singapore, Brunei học bằng tiếng Anh
từ tiểu học nên tốt nghiệp đại học họ sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ.
Nhìn xa sang châu Âu và châu Phi, học sinh tốt nghiệp trung học rồi là
biết rành ít nhất một ngoại ngữ, thường là hai ngoại ngữ.
Cá biệt như Thụy Sĩ, học sinh và sinh viên đều biết bốn
thứ tiếng: bản ngữ Đức, Pháp, Ý, và ngoại ngữ Anh. Học sinh bậc tiểu
học đã biết hai bản ngữ rồi, thêm vào vốn tiếng mẹ đẻ; lên trung học học
sinh học tiếp bản ngữ thứ ba và tiếng Anh.
Ở nước ta, các công ty nước ngoài vào đầu tư đều than
phiền về khả năng kém tiếng Anh và tin học của sinh viên tốt nghiệp đại
học của chúng ta. Và các cơ quan, xí nghiệp, doanh nghiệp trong nước
cũng phải chịu thiệt thòi khi thu nhận những người tốt nghiệp đại học mà
trình độ ngoại ngữ thì “nói người ta không hiểu, và người ta nói thì
mình cũng không hiểu luôn”.
Tình trạng ù ù cạc cạc về ngoại ngữ của học sinh và
sinh viên VN sẽ tiếp tục dài dài, tính cạnh tranh của nguồn nhân lực VN
sẽ tiếp tục thua sút nước khác, khi nào Bộ GD-ĐT chưa dám thay đổi
chương trình đào tạo các giáo viên ngoại ngữ tại trường sư phạm và nội
dung chương trình dạy ngoại ngữ trong các lớp phổ thông, ở bậc đại học.
Phải có thầy cô lão luyện cách dạy ngoại ngữ có hiệu
quả cao, đồng thời phải có nội dung chương trình phổ thông cải tiến vừa
phải để chừa thời gian cho thực tập đủ bốn kỹ năng đọc, viết, nghe, nói
thì học sinh và sinh viên của chúng ta mới thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng
Anh, ngang tầm quốc tế được.
Gs VÕ TÒNG XUÂN